Thứ Bảy, 30 tháng 7, 2016

Thiều Sơn một câu

         

       Một hôm có ông tăng hỏi Thiều Sơn, “Có câu nói nào không không đúng cũng không sai chăng?” Thiều Sơn đáp, “Một mảng mây trắng chẳng khoe xấu xí.”

        Như Huyễn: Thiều Sơn thừa kế Giáp Sơn, trong giới chùa chiền ai cũng biết tính nghiêm khắc của Giáp Sơn, nhưng khi vượt qua được sự nghiêm khắc của Giáp Sơn, sư có khả nằng truyền giáo pháp thâm sâu chỉ bằng một chữ hay một câu ngắn.
        Ông tăng thực ra đang hỏi, “Tự tại hay giải thoát thực sự là gì?” Phần đông chúng ta vật lộn với sự vướng mắc vào phải và trái, tốt và xấu, thích và không thích mà Thiền thì siêu việt các ý nghĩ nhị nguyên này. Tuy nhiên, giây phút một người nói về Thiền của mình thì một cặp quỉ lóe mắt đằng trước y. Thiều Sơn không đá động gì đến chơn như tuyệt đối hay nhất thể cũng không dùng đến bất cứ đặc ngữ tôn giáo nào. Sư để dành những cái đó cho những người làm tôn giáo  chuyên nghiệp.
      

Bách Linh chứng đắc


        Bách Linh và Cư sĩ Bàng Uẩn cùng học Thiền dưới Đại sư Mã Tổ, người thừa kế Nam Nhạc. Một hôm giữa đường họ gặp nhau. Bách Linh nói, “Sư ông của chúng ta nói, ‘Nếu nói một vật tức chẳng phải’. Tôi ngờ rằng sư ông không chỉ nó cho ai hết.” Cư sĩ Bàng Uẩn nói, “Có. Sư ông đã chỉ rồi.” Bách Linh hỏi, “Cho ai vậy?” Cư sĩ lấy ngón tay tự chỉ vào mình, nói, “Cho người này.”
         Bách Linh nói, “Sự chứng đắc của ông đẹp và sâu lắm dù cho Văn Thù và Tu Bồ Đề cũng không thể tán thán ông xứng đáng.”
          Rồi cư sĩ nói, “Tôi ngờ rằng không có ai biết ý sư ông muốn nói gì.” Bách Linh không đáp, chỉ đội cái nón rơm lên và bỏ đi. “Đi cẩn thận,” Cư sĩ Bàng Uẩn gọi, nhưng Bách Linh cứ tiếp tục đi, không quay đầu lại.


           Như Huyễn: Những người học Thiền đều cố gắng nhận ra Phật tánh. Họ có thể gọi nó là ‘tâm yếu’, Pháp thân, Phật thân hay ‘chơn tánh của một người’, nhưng tên chỉ là cái bóng, không phải vật thật. Như Nam Nhạc nói, “Nếu nói một vật tức chẳng nhằm.”

Nam Tuyên Phật đá

         Cư sĩ Lục Cắng nói với hòa thượng Nam Tuyền, “Trong nhà con có một hòn đá hoặc ngồi hoặc nằm. Con có ý muốn chạm thành một vị Phật. Con làm được chứ?” Nam Tuyền đáp: “Được, ông làm được.” Lục Cắng lại hỏi, “Con không làm được ư?” Nam Tuyền đáp: “Không, ông không làm được.”

         Như Huyễn: Ông cư sĩ này muốn biết khả năng thành Phật của mình. Nếu không thể thành Phật, thì ông ta giống như một hòn đá.  Ông nghĩ thầy ông, Nam Tuyền sẽ ca ngợi ý định tốt của ông. Nhưng Nam tuyền chỉ nói, “Được, ông làm được.” Khi Lục Cắng nói, “Con không thể làm được ư?” ý ông muốn biết chắc chắn và mong Nam Tuyền cho ông sự khẳng định.

           Thiền của Nam Tuyền dùng lý tưởng làm cửa vào. Một người muốn chạm đá làm tượng Phật thì phải tự mình làm lấy, dù người khác có chấp thuận hay không. Nếu y có chút nghi ngờ về khả

Thứ Sáu, 29 tháng 7, 2016

La Sơn khai đường


          Mân Vương xây một ngôi chùa cho La Sơn và mời sư nói bài pháp đầu tiên trong pháp đường. Với tư cách là sư của viện, La Sơn lên tòa ngồi nhưng chẳng nói gì trừ hai tiếng “Cáo biệt,” trước khi trở về phòng riêng. Mân Vương tiến đến bên sư, nói, “Ngay cả những gì Phật dạy trên Thứu sơn cũng đến như hòa thượng hôm nay là cùng.” La Sơn đáp, “Tôi đã nghĩ rằng ngài là khách lạ đối với pháp nhưng bây giờ thì hóa ra ngài cũng có biết Thiền.”

          Như Huyễn: Hai người này sống ở Trung Hoa vào thế kỷ thứ tám sau Tây lịch, nhưng cả hai sẽ mãi mãi cho thấy cái đẹp của sự bất toàn đối với những ai hiểu sự đánh giá bên trong. Một ngôi chùa Phật giáo luôn luôn có một tượng Phật trên bàn thờ, nhưng một ngôi chùa Thiền đích thực thì chẳng có tượng gì hết. Một vị sư đứng vào chỗ của Phật, dùng bàn thờ làm giảng tòa; ông ta mang chiếc y thừa kế từ hế hệ này đến thế hệ khác, đặt nó lên trước khi nói pháp, và lấy nó xuống ngay sau bài pháp.

Văn Thù vào cửa

   
         Một hôm Bồ¬tát Văn Thù đứng ngoài cửa thì đức Phật gọi:
         ¬ Văn Thù, Văn Thù, sao không vào đi?
         Văn Thù đáp:
         ¬ Con chẳng thấy vật gì ở ngoài cửa. Tại sao con phải vào?


          Như Huyễn: Những câu chuyện Thiền là những vấn đề của cuộc sống, chủ đề của thiền định. Không nhất thiết phải là đối thoại giữa Phật và Văn Thù. Giả sử có ai trong quí vị lưỡng lự không bước vào Thiền đường này, tôi nói: “Sao không vào đi?” Nếu là người tỉnh giác trong lúc đó, sẽ nói: “Tôi chẳng thấy cái gì ở ngoài cửa. Tại sao tôi phải vào?” Y chẳng thấy vật gì tách rời Thiền đường; trong và ngoài là những chữ để so sánh. Nhất thiết y chẳng nghe gì, chẳng thấy gì, chẳng sờ gì, chẳng ngửi gì, chẳng nếm gì, và chẳng nghĩ gì mà chỉ từ tốn đến chỗ của mình ngồi xuống. Thế thì tôi còn có thể làm gì khác hơn là ca ngợi một người hoàn toàn tự do tự tại như vậy?
        Con người vẫn còn trẻ và ngu dại. Thay vì học tính hợp nhất từ các tôn giáo, y học lấy tính nhị nguyên. Với ảo tưởng của mình, nếu có dịp, y liền dựng lên cái cửa, rồi thấy có vật ở bên ngoài cửa. Y nghe, ngửi, nếm, sờ và nghĩ theo lập trường vị kỷ. Y nói về bốn biển đều là anh em, nhưng chẳng hiểu nguyên lý của nó. Thế giới cần Văn Thù mà không cần chúa cứu thế, không cần đấng tiên tri. Văn Thù là ai?
        Văn Thù biểu tượng cho trí tuệ Phật. Văn Thù cưỡi sư tử, diệt tất cả mê hoặc, với thanh kiếm bén chém đứt tất cả ràng buộc, vướng mắc ngăn chặn sự giải thoát. Một số Phật tử nghĩ rằng Văn Thù là đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni; một số khác nói về kiếp trước và kiếp này của Văn Thù được phép lạ mật khải. Hãy để họ nằm mộng thế nào tùy thích. Người học Thiền phải gặp Văn Thù trong chính mình.

Tiếng sáo thép (Phần 2)

     
       TỰA CỦA TÁC GIẢ (Thiên Khi Như Huyễn)
       Nguyên gốc tác phẩm này là của Genro, một Thiền sư thuộc tông Tào động Nhật bản, viết và xuất bản năm 1783. Mỗi câu chuyện là một công án mà tác giả đã có lời bình và kệ đi kèm. Fugai, người thừa kế Genro, thêm nhận xét của sư, câu đối câu, vào sách của thầy. Tôi sẽ dịch các câu chyện hay tắc, gồm cả lời bình của Genro và nhận xét của Fugai trong hầu hết các câu chuyện để tham khảo. Có khi gặp bài kệ cũng dịch để khuyến khích học tập.
       Vì nhiều khi lời bình của Genro hay Fugai dẫn các tích xưa, tục cũ không quen thuộc đối với người Tây phương, tôi sẽ giải
thích trong các phần bình luận của tôi. Trừ vài câu chuyện có gốc Ấn độ, thì bối cảnh là Trung hoa trong các thời nhà Đường (620-¬906) và nhà Tống (930¬-1278), là thời đại hòang kim của Thiền.
       Thiết Địch Đảo Xuy (Tetteki Tosui) là nhan đề của nguyên tác. Thiết Địch có nghĩa là “ống sáo thép”. Ống sáo thường làm bằng trúc có một lỗ để kê miệng thổi và những lỗ khác để các ngón tay sử dụng, nhưng cái ống sáo này làm bằng thép đặc chẳng có lỗ để thổi cũng chẳng có lỗ để bấm nốt. Đảo Xuy có nghĩa là thổi ngược. Nhạc sĩ thông thường lang thang trong hàng ngũ một ban nhạc lớn sẽ không bao giờ có thể sử dụng được nhạc khí Thiền này, nhưng ai biết chơi đàn cầm không dây cũng sẽ chơi được cái ống sáo không lỗ này.

Thứ Năm, 28 tháng 7, 2016

Tiếng sáo thép (Phần 1)

          Với tinh thần học hỏi và chia sẽ những tri thức hạn hẹp về Thiền tông, xin được giới thiệu cùng các bạn tác phẩm "Tiếng sáo thép" ghi lại 100 công án Thiền do ngài Thiên Khi Như Huyễn dịch Anh và bình đã được Đổ Đình Đồng Việt dịch.

          Lời Người Dịch

          Từ khi Thiền sư Phật Quả Viên Ngộ (1063¬-1135) bình và tụng100 tắc trong Tuyết Đậu Tụng Cổ của Tuyết Đậu Trùng Hiển (908-¬1052), Bích Nham Lục thành hình và lưu hành rộng rãi trong giới học Thiền xưa cũng như nay. Bích Nham Lục đã có lần là trở ngại lớn cho người tham thiền và cũng trải qua trở ngại lớn. Trở ngại lớn vì văn chương trác việt, ý đạo thâm huyền, người học khó thấy lối thoát ra chỉ vì bám vào chữ và nghĩa. Thấy rõ cái nguy đó, Đại Huệ Tông Cảo (1069-¬1163), người thừa kế Pháp của Phật Quả Viên Ngộ, đã thu góp hầu hết các bản in lưu hành thời bấy giờ, chất thành đống trước cửa chùa, cho một mồi lửa đốt sạch, khiến sách hầu như thất truyền trong một thời gian, nên gọi là trải qua trở ngại lớn.

Công án Thiền


         
         ..."Thuở ban sơ, Thiền tông chỉ có độc gia ngữ lục nên sách chuyên về công án không có. Dần dần ngữ lục ra đời ngày càng nhiều nên mới có các loại sách chuyên vựng tập công án, trong đó nổi tiếng nhất là Bích nham lục, Thung dung lục, Vô môn quan, Cảnh Đức truyền đăng lục, Nhân thiên nhãn mục, Chỉ nguyệt lục, Tục Chỉ nguyệt lục v.v... Trong công án phần nhiều có một chữ hay một câu nói ngắn nêu ra để cho người học tham cứu gọi là “Thoại đầu”, như hỏi: “Con chó có Phật tính không?”, đáp: “Không”, thì mẩu đối thoại này gọi là công án, mà chữ “Không” là một thoại đầu (Vấn “Cẩu tử hữu Phật tính dã vô?”. Đáp “Vô”).
          Nếu khi tham thiền mà nhằm công án hạ công phu thì gọi là “Tham thoại đầu”.
          Riêng công án mà sư gia dùng ngôn ngữ để khai thị học nhân thì gọi là “Thoại đầu công án”.
         Theo lý thuyết mà nói thì người ta không thể dùng luận lý (la tập) để suy đoán hoặc dùng kiến thức để giải thích ý nghĩa công án vì tinh thần Thiền tông vượt qua khỏi ý nghĩa của từ ngữ hoặc sự suy lường của thế trí. Do đó mà sư gia thường sử dụng tính cách “Không thể dùng luận lý” để giúp họ thể chứng chân tánh.

Thiền ngữ

     
          Thiền ngữ của các bậc giải thoát như mây bay, như gió thổi, như sấm sét, như mưa rào, chợt đến, chợt đi, thoắt biến, thoắt hiện, không từ một gốc gác, một trụ xứ nào, khiến không một mảy may tình tưởng, tri thức có thể nắm bắt, nương vin. Tuỳ căn cơ, trí tuệ, và đặc biệt là phước duyên sâu dày của từng người cầu đạo đối với pháp môn này mà ngay trong chỗ biến hóa khôn lường của từng lời vượt thoát kia vừa chợt lìa miệng Tổ, thiền ngữ tự có công năng kỳ đặc, nhiệm mầu, kích thích sự khai mở tuệ nhãn một cách tích cực, hiệu quả tức thì.

          Trong thời Chánh-pháp, sau khi đức Phật nhập diệt, một hôm, ngài A-Nan hỏi Tổ Ca-Diếp:
          - Bạch Sư huynh ! Khi Thế-tôn phó chúc và truyền y kim tuyến cho Sư huynh, còn có pháp gì truyền riêng nữa chăng ?
          Tổ Ca-Diếp liền gọi :
          - A-Nan !
          Ngài A-Nan ứng thinh :
          - Dạ !
          Tổ Ca-Diếp bảo :
          - Trời chiều rồi, đem cây chống cữa vào.
          Vừa chợt nghe, ngài A-Nan liền tỏ ngộ.

           Lời khai thị của các Ngài đôi khi như chẳng dính dấp gì tới cái đích hỏi của người cầu đạo. Thế nhưng nếu là người lanh cơ, trực giác mạnh mẽ, có thể liền ngay đó bắt nhịp cùng hòa "một" với các Ngài, thì con đường sống tức khắc mở toang trước mắt.